Tổng thuật Hội thảo Quốc tế Chiang Mai 2024

Hội thảo Quốc tế Chiang Mai 2024 được diễn ra vào ngày 23 tháng 7 năm 2024 tại Khách sạn Kantary, Chiang Mai, Thái Lan. Trong khuôn khổ hội thảo, các giảng viên của trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh có bài tham luận xuất sắc được lựa chọn đã đến trao đổi học thuật tại đây. Sự kiện này được tổ chức bởi Đại học Chiang Mai (Thái Lan) và Đại học Nantes (Pháp), với sự bảo trợ xuất bản của Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam (Vietnamese Journal of Legal Sciences) thuộc trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Sự kiện này là một diễn đàn khoa học quan trọng tập trung các học giả, chuyên gia và nhà nghiên cứu từ 8 quốc gia thuộc Châu Á và Châu Âu gặp gỡ, trao đổi và thảo luận về những vấn đề pháp lý, kinh tế, và phát triển bền vững.

Hội thảo Quốc tế Chiang Mai 2024 diễn ra tại Khách sạn Kantary, Chiang Mai, Thái Lan.

Phiên 1 với chủ đề “Quan hệ quốc tế” được chủ trì bởi PGS. TS. Trần Thị Thùy Dương (Phó Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh). GS. TS. Emilie Dencher (Đại học Nantes, Cộng hòa Pháp) đã chia sẻ rằng quan hệ giữa Liên minh châu Âu (EU) và ASEAN đã phát triển đáng kể trong lĩnh vực kinh tế và thương mại, đến mức một hiệp định thương mại tự do liên khu vực đang được thảo luận. Trong “Chiến lược hợp tác khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” công bố tháng 9/2021, EU khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong khu vực này, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông vẫn tiếp diễn, và thúc đẩy một nền tảng hợp tác đa phương hiệu quả. Cả EU và ASEAN đều thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và pháp quyền nhưng ở các mức độ khác nhau. PGS. TS. Usanee Aimsiranun (Khoa Luật, Đại học Chiang Mai) cũng trình bày về tác động của vai trò trung tâm của ASEAN trong bối cảnh sự phân cực và cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương do Hoa Kỳ dẫn dắt. Bà kết luận rằng ASEAN cần đổi mới và củng cố để bảo vệ vị trí của mình trong cấu trúc đa phương khu vực.

ThS. Nguyễn Xuân Mỹ Hiền (Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) đã đặt câu hỏi về tác động của các thay đổi trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ sắp tới đối với chính sách hợp tác kinh tế của Hoa Kỳ, EU và các nước ASEAN. PGS. TS. Usanee Aimsiranun cho rằng Hoa Kỳ có thể thay đổi chính sách và với ảnh hưởng hiện tại của Trung Quốc lên ASEAN, ASEAN cần đứng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà không bị áp đảo bởi bất kỳ bên nào. GS. TS. Emilie Dencher giải thích rằng EU phụ thuộc vào Hoa Kỳ về an ninh (NATO) và vào Trung Quốc về thương mại, do đó trong trường hợp Trump tái đắc cử, EU và ASEAN cần trở thành "cường quốc trung bình" (middle power) với các chính sách tự do hóa thương mại và đa phương hóa. PGS. TS. Anjali Yadav (Đại học VIT-AP, Ấn Độ) bổ sung thêm rằng các hiệp định tự do hóa thương mại giữa các nước ASEAN và EU không chỉ là sự chuyển đổi thương mại toàn cầu, mà còn đại diện cho sự thay đổi then chốt với những tác động đáng kể đến các nền kinh tế lân cận như Ấn Độ.

PGS. TS. Trần Thị Thuỳ Dương trao đổi cùng chuyên gia nước ngoài

Phiên 2 với chủ đề “Các khía cạnh đặc thù của Hiệp định Thương mại Tự do” được điều hành bởi GS. TS. Emilie Dencher. Đại diện cho hai đồng tác giả là LS. Nguyễn Thành Tựu và Lê Phạm Hoàng Tâm, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) đã trình bày về các cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp của EVFTA và tác động của chúng đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị để nâng cao lợi thế cạnh tranh của sản phẩm nông sản khi xuất khẩu sang thị trường EU. Nhóm tác giả gồm TS. Nguyễn Phương Thảo (Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) và ThS. Đặng Thái Bình (Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh)  đã nhận thấy rằng để đáp ứng các yêu cầu của EVFTA về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có nhiều thay đổi, bao gồm việc ban hành Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2023 và Nghị định số 13/2023/ND-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Các tác giả phân tích tác động của EVFTA lên hệ thống pháp luật Việt Nam hiện tại bằng cách đánh giá tính tương thích của các chính sách và quy định của Việt Nam với các điều khoản của hiệp định này.

ThS. Nguyễn Xuân Mỹ Hiền đặt câu hỏi cho TS. Nguyễn Thị Thu Thảo về việc liệu các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của EVFTA có giúp Việt Nam nâng cao tiêu chuẩn chung về sản xuất thực phẩm hay chỉ thúc đẩy Việt Nam tập trung cải thiện chất lượng của sản phẩm xuất khẩu mà bỏ quên thị trường trong nước. TS. Nguyễn Thị Thu Thảo cho rằng có sự khác biệt về tiêu chuẩn thực phẩm cho xuất khẩu và tiêu thụ trong nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, với tư cách là một nước đang phát triển, Việt Nam có thể thay đổi. Chính phủ có thể ban hành các quy định, theo WHO, để nâng cao tiêu chuẩn thực phẩm cho cả xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. ThS. Lê Trần Quốc Công đặt câu hỏi cho TS. Nguyễn Phương Thảo về sự khác biệt giữa bảo vệ dữ liệu người tiêu dùng và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Bà giải thích rằng dữ liệu người tiêu dùng không được bảo vệ nhiều như dữ liệu cá nhân vì người tiêu dùng thường phải cung cấp dữ liệu và thông tin để tham gia đầy đủ vào các hoạt động thương mại. Tuy nhiên, cả hai loại bảo vệ dữ liệu đều yêu cầu sự đồng ý của chủ thể dữ liệu để sử dụng.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thảo - Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh trình bày tham luận

Phiên 3 với chủ đề “Môi trường Lao động” bắt đầu với Phần 1 được điều hành bởi TS. Alexandre Chitov (Khoa Luật, Đại học Chiang Mai). PGS. TS. Trần Thị Thùy Dương và ThS. Lê Thị Minh Trang đã nhấn mạnh rằng EU và ASEAN đang nuôi dưỡng các mối quan hệ đối tác kinh tế chiến lược nhằm thúc đẩy kinh tế xanh và phát triển bền vững. Tuy nhiên, tác động môi trường của sự hợp tác này vẫn đang được tranh luận. Dù nghiên cứu cho thấy hợp tác EU đã góp phần hướng Việt Nam đến phát triển bền vững hơn, các thách thức về sự khác biệt trong tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, hệ thống pháp lý và năng lực chuyên môn kỹ thuật đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả hơn giữa hai đối tác. Bài tham luận của ThS. Lê Minh Nhựt, ThS. Phùng Hồng Thanh và Nguyễn Xuân Thông nhận thấy rằng thị trường carbon là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để các quốc gia ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Cả EU và Trung Quốc đều có cấu trúc pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho thị trường carbon và là các mô hình toàn cầu để thiết lập và phát triển chúng. Nhóm tác giả đề xuất thiết lập và phát triển thị trường carbon bắt buộc và phân bổ lượng khí thải nhà kính, chuyển từ phương pháp cấp phép dựa trên lịch sử sang phương pháp đánh giá tiêu chuẩn và tiến tới đấu giá, bên cạnh xây dựng các quy định chặt chẽ và cụ thể về giao dịch quyền phát thải carbon.

ThS. Nguyễn Phượng An (Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) đặt câu hỏi cho ThS. Lê Minh Nhựt về những gì chính phủ Việt Nam nên làm để tạo ra thị trường carbon ở Việt Nam. Ông cho biết Việt Nam đã có các luật như Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, do đó chính phủ đang thúc đẩy và từng bước xây dựng thị trường carbon. ThS. Lê Thị Minh Trang cũng cho biết một phần thu nhập của người dân Việt Nam đến từ rừng, bà cho biết các quy định của EU rất nghiêm ngặt và tiêu chuẩn cao, do đó tác động là rất lớn. PGS. TS. Trần Thị Thùy Dương bổ sung rằng bảo vệ môi trường là điều cần thiết, Việt Nam sẽ buộc phải tuân thủ các tiêu chuẩn cao này. ThS. Nguyễn Đào Phương Thúy hỏi ThS. Lê Minh Nhựt về những yêu cầu đối với Việt Nam để thiết lập và thích ứng với thị trường carbon. Ông cho biết rằng có nhiều dự án cho các khuyến nghị cũng như hội nghị về các chủ đề này (như một hội nghị HCMCULaw sẽ tổ chức vào năm 2025). Hơn nữa, trong giai đoạn 2025-2027, Việt Nam sẽ có một thị trường carbon thí điểm để thử nghiệm. ThS. Lê Trần Quốc Công đặt câu hỏi cho PGS. TS. Trần Thị Thùy Dương về cách gỡ bỏ “thẻ vàng” của EU khỏi ngành đánh bắt cá của Việt Nam. Bà cho biết các quy định của EU về đánh bắt cá là cần thiết và tuân theo các quy định mới của WTO về đánh bắt cá. Tuy nhiên, trợ cấp nghềvẫn có vai trò quan trọng tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Việt Nam cần cân bằng giữa phúc lợi xã hội và kinh tế của ngư dân và gia đình họ với bảo vệ môi trường. Việt Nam có thể học hỏi từ Thái Lan khi trước đây cũng từng có “thẻ vàng” và đã thành công trong việc gỡ bỏ nó. NCS. Rizky Bayualam Permana (Khoa Luật, Đại học Indonesia) nêu quan điểm rằng một số quy định trong các hiệp định thương mại tự do không mang tính ràng buộc pháp lý, và hỏi PGS. TS. Trần Thị Thùy Dương làm thế nào Việt Nam có thể thực thi các điều khoản này? Bà cho biết mặc dù các điều khoản không ràng buộc, Việt Nam vẫn cần thực hiện chúng để có thể xuất khẩu sang EU. TS. Alexanbre Chitov cho rằng vì đặc điểm của ngành đánh bắt cá Việt Nam (không có các ngành công nghiệp lớn mà có rất nhiều ngư dân nhỏ lẻ), chính phủ không thể quản lý hiệu quả và nâng cao nhận thức về đánh bắt cá và bảo vệ môi trường. Đối với ngư dân, lợi nhuận từ đánh bắt bất hợp pháp lớn hơn các biện pháp trừng phạt vì hầu hết họ đều nghèo và cần nuôi sống gia đình. Chính phủ cần cân bằng lợi ích của người dân và bảo vệ môi trường, do đó cần ban hành các quy định pháp luật phù hợp.

Phần 2 của phiên 3 được điều hành bởi Ploykaew Porananond, với bài mở đầu của NCS. Rizky Banyualam Permana (Khoa Luật, Đại học Indonesia). Ông nhận định rằng EU luôn đi đầu trong việc ủng hộ việc đưa các quy định về thương mại và phát triển bền vững vào các hiệp định thương mại khu vực (RTA) với các đối tác thương mại của mình. Đáng chú ý, EU đã thiết lập các chương trình thương mại và phát triển bền vững toàn diện trong các hiệp định với hai đối tác quan trọng ở Đông Nam Á là Việt Nam và Singapore, thông qua các hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam FTA) và EU-Singapore (ESFTA). Ngược lại, quá trình hội nhập kinh tế khu vực của ASEAN lại cho thấy sự thiếu vắng đáng kể các mối quan tâm về thương mại và phát triển bền vững. Điều này được thể hiện rõ qua việc thiếu các quy định về thương mại và phát triển bền vững trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), ngoại trừ một tham chiếu duy nhất đến Công ước Liên Hợp Quốc về Đa dạng Sinh học. Với nguyên tắc trung tâm của ASEAN, sự thiếu sót này là điều đáng ngạc nhiên và mâu thuẫn với Hiến chương ASEAN, vốn nhấn mạnh rõ ràng phát triển bền vững là một trong những mục tiêu chính trong việc xây dựng khu vực. Ông kết luận rằng việc phát triển một sự hiểu biết chung về các quy định thương mại và phát triển bền vững là rất quan trọng vì, từ góc độ tương tác, sự hiểu biết chung này giữa các bên tham gia xây dựng quy tắc sẽ hợp pháp hóa các quy tắc quốc tế.

Cùng quan điểm, TS. Alexandre Chitov cho rằng vấn đề bảo vệ môi trường có tầm quan trọng chiến lược trong quá trình phát triển, nhưng việc thực thi còn gặp nhiều thử thách khác nhau theo từng quốc gia. Ông lập luận rằng nỗ lực hợp tác quốc tế để bảo vệ môi trường nên bị hạn chế hoặc làm suy yếu ngay cả trong bối cảnh xung đột chính trị.

Bà Nguyễn Phượng An, Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tiếp nối với chủ đề “Di chuyển lao động và di cư – Giải pháp kép cho bài toán: Tăng trưởng kinh tế và Mục tiêu phát triển bền vững?”. Hiện nay, dân số trong độ tuổi lao động của châu Âu đã giảm từ 272 triệu người vào năm 2009 xuống còn 265 triệu người vào năm 2022 và dự kiến sẽ tiếp tục giảm xuống còn 258 triệu người vào năm 2030. Các quốc gia ASEAN cũng đang đối mặt với sự gia tăng mạnh mẽ về tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt sau đại dịch COVID-19. Từ đó, bà nghiên cứu các quy định về di chuyển lao động của EU và ASEAN để đánh giá tính khả thi của việc phát triển một thị trường lao động chung giữa ASEAN và EU, nhấn mạnh sự cần thiết về cơ chế công nhận lẫn nhau trong đào tạo giữa ASEAN và EU, cũng như cơ chế thông tin quản lý lao động nhập cư và bảo vệ quyền lợi của người lao động nhập cư. Đây cũng là một giải pháp để giảm thiểu tình trạng nhập cư và lao động bất hợp pháp ở EU và giải quyết vấn đề thất nghiệp, qua đó góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

GS. TS. Emilie Dencher cũng nêu quan điểm rằng vấn đề môi trường/phát triển bền vững không phải là giá trị chính của EU, mà mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền vững với thị trường mới là giá trị chính. NCS. Rizky Banyualam Permana cho biết rằng Indonesia, với tư cách là một quốc gia ASEAN, mong muốn xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU và do đó sẵn sàng ký và thực thi các cam kết về môi trường/phát triển bền vững.

Tiếp nối chương trình của Phiên 3, NCS. Andréa Phonsavanh Simonnet (Đại học Nantes) cho biết tại hội nghị thượng đỉnh kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 12 năm 2022, chính phủ Indonesia đã bày tỏ quan ngại với EU đối với quy định chống phá rừng bằng cách hạn chế nghiêm ngặt việc nhập khẩu vào thị trường châu Âu các sản phẩm có nguồn gốc từ việc phá rừng trái phép. Quy định này đã trực tiếp đe dọa tới việc xuất khẩu sang thị trường châu Âu dầu cọ, một sản phẩm nông nghiệp thiết yếu của nền kinh tế Indonesia và Malaysia. Thực tế, ngoài dầu cọ, quy định này cũng tác động đến sản xuất và xuất khẩu các tài nguyên nông nghiệp quan trọng đối với nền kinh tế của khu vực, như cà phê, ca cao và thậm chí là đậu nành. Sự thay đổi quy định này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đàm phán các hiệp định thương mại tự do với các quốc gia phát triển trong khu vực ASEAN, cũng như thách thức việc thực hiện hợp tác phát triển với một số quốc gia kém phát triển hơn như Lào. Bà cũng bày tỏ quan ngại về việc Châu Âu ghi nhận nhiều mối quan tâm và lợi ích khác nhau trong các hiệp định tự do thương mại và vì thế có xu hướng chính trị hóa vấn đề thương mại, phá vỡ nguyên tắc đồng thuận và đa phương với các đối tác.

TS. Carole Billet (Đại học Nantes) đã chia sẻ rằng trong 25 năm qua, Liên minh châu Âu đã dần phát triển quan hệ với các đối tác trong các lĩnh vực di cư và hợp tác an ninh. Cách tiếp cận của EU được xác định bởi các mục tiêu phát triển khu vực tự do, an ninh và công lý, cũng như các hành động đối ngoại của mình, dẫn đến một cách tiếp cận khác biệt tùy vào từng đối tác.

TS. Alexandre Chitov Alexandre đặt câu hỏi về cách các quy định của EU gây gánh nặng tuân thủ đến các doanh nghiệp nhỏ ở các nước đang phát triển. NCS. Andréa Phonsavanh Simonnet cho biết EU có những tham vọng lớn được thể hiện qua khung pháp lý và các cuộc thương lượng của họ, nhưng họ không có đủ nghiên cứu về vấn đề thực thi các quy định đặt ra và EU nên hợp tác với các quốc gia và tổ chức để tìm ra cách thực hiện. TS. Alexandre Chitov Alexandre đặt thêm câu hỏi về cách EU nhìn nhận vấn đề di cư từ các quốc gia châu Phi và Trung Đông. TS. Carole Billet trả lời rằng EU lo ngại nhiều hơn về rủi ro di cư bất hợp pháp vì nhiều lý do khác nhau, tuy nhiên không có tài liệu chính thức nào về yêu cầu cụ thể của EU về việc di cư. Khi được hỏi về quan điểm của EU về vấn đề buôn người châu Á, TS. Carole Billet cho biết EU cố gắng ban hành khung pháp lý về chế tài trừng phạt việc buôn người, nhưng quá trình thực thi gặp nhiều vấn đề do hoạt động của nhiều tổ chức. ThS. Nguyễn Phượng An đặt câu hỏi về tiềm năng để tạo ra một thị trường lao động chung giữa EU và châu Á. TS. Carole Billet cho biết ưu tiên hiện tại của EU là an ninh biên giới và an ninh tổng thể phát sinh từ vấn đề di cư, nhưng vẫn có hy vọng phát triển một thị trường lao động chung trong tương lai.

Phiên 4 về chủ đề “Chuyển dịch dữ liệu xuyên biên giới và Nền kinh tế số” được dẫn dắt bởi PGS. TS. Pornchai Wisuttisak. Mở đầu phiên, bài tham luận của ThS. Lê Trần Quốc Công và ThS. Nguyễn Đào Phương Thúy (Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) với chủ đề “Tác động của các tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu cá nhân của Liên minh châu Âu lên sự phát triển của luật pháp ở các nước ASEAN” đã nhấn mạnh tham vọng xây dựng ASEAN trở thành một cộng đồng số hàng đầu và một khối kinh tế mạnh mẽ, được hỗ trợ bởi các dịch vụ số an toàn và chuyển đổi, công nghệ và hệ sinh thái số. Quyền riêng tư của mỗi công dân ASEAN cũng cần được đảm bảo dựa trên các giá trị độc đáo của điều kiện văn hóa xã hội của từng quốc gia thành viên. Trong khi các quốc gia Đông Nam Á vẫn đang vật lộn tìm kiếm giải pháp, GDPR của Liên minh châu Âu đã trở thành một hiện tượng toàn cầu về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Luật này tạo ra các tiêu chuẩn riêng theo phong cách châu Âu và khái niệm Tầm với dài của GDPR đã ra đời nhờ Điều 3 và Chương V của luật này, trở thành một vấn đề nóng. Bài tham luận của ThS. Nguyễn Xuân Mỹ Hiền (Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) và ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy (Thư ký tòa soạn Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) cũng chia sẻ từ góc nhìn thương mại quốc tế rằng dòng chảy dữ liệu xuyên biên giới đã trở thành trọng tâm toàn cầu do gắn liền với dòng chảy thương mại hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, các mối quan tâm về quyền riêng tư đối với dữ liệu cá nhân và an ninh quốc gia được diễn giải khác trong trong pháp luật quốc gia và hiệp định quốc tế gây ra thách thức lớn cho tự do hóa dữ liệu trong khuôn khổ thương mại quốc tế. Đơn cử, EVFTA cho phép các bên áp dụng biện pháp để bảo vệ lợi ích công hợp pháp, bao gồm mục tiêu bảo vệ dữ liệu, nhưng quy định này gây khó khăn cho các quốc gia đang phát triển vì thiếu sự cụ thể trong việc chứng minh, khiến các quốc gia có thể lợi dụng để ban hành các rào cản pháp lý lẫn kỹ thuật gây ra hiệu ứng hạn chế thương mại, hạn chế dòng chảy dữ liệu xuyên biên giới. Trong bối cảnh này, nhóm tác giả cho rằng quy định mới về luồng dữ liệu dựa trên sự tin cậy (trust) như tại Hiệp định Đối tác Kỹ thuật số EU-Singapore (EUSDP) giúp giảm bớt gánh nặng hành chính và chi phí tuân thủ.

Tham luận của TS. Nguyễn Thái Cường (Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh), Lê Huỳnh Mai Tâm và Nguyễn Hoàng Minh Châu (Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) tiếp tục nhấn mạnh rằng sự khác biệt trong các quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân giữa ASEAN và EU đặt ra những thách thức cho hợp tác và phát triển kinh tế giữa hai khối. Vai trò của các sáng kiến như Điều khoản Hợp đồng Mẫu của ASEAN (MCCs) trong việc tăng cường tin cậy và hợp tác giữa hai khối là rất quan trọng. ThS. Mạc Trang Anh (Công ty luật IndoChina) cũng nhận xét rằng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu và các nền tảng trực tuyến cung cấp nhiều cơ hội để phát triển kinh tế số, nhưng cũng tạo ra các thách thức pháp lý, bao gồm quản lý luồng dữ liệu xuyên biên giới và tiêu chuẩn an ninh mạng.

ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy đặt câu hỏi cho TS. Nguyễn Thái Cường về khả năng Việt Nam nhận được chứng nhận tương thích (adequacy status) của EU khi Nghị định 13/2023 có hiệu lực và dựa trên hình mẫu của GDPR. TS. Nguyễn Thái Cường trả lời rằng nỗ lực thực thi Nghị định này là quan trọng để đạt được đầy đủ điều kiện của EU. ThS. Lê Trần Quốc Công bổ sung rằng Nghị định 13/2023 vừa qua được bàn luận để yêu cầu sửa đổi rất nhiều, đặc biệt là có các thảo luận về chế tài thúc đẩy thực thi. ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy đặt câu hỏi về việc hài hòa hóa pháp luật các nước ASEAN về bảo vệ dữ liệu cá nhân cho ThS. Nguyễn Đào Phương Thúy. ThS. Nguyễn Đào Phương Thúy nhận định rằng mỗi quốc gia ASEAN khác nhau có những đặc điểm khác nhau, và việc thiết lập khuôn khổ chung của riêng ASEAN là cần thiết.

Các diễn giả tại Hội thảo quốc tế

Hội thảo kết thúc lúc 16:45 cùng ngày./.

--%>
Top