Tổng thuật Hội thảo Hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

BÁO CÁO TỔNG THUẬT

HỘI THẢO “HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ”

Dẫn nhập

BHNT (BHNT) vừa là một hình thức chuyển giao rủi ro, vừa là một hình thức đầu tư tài chính hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên là điều kiện cho BHNT phát triển. Tuy nhiên, quy định pháp luật về hợp đồng BHNT tồn tại rất nhiều quy định không còn phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Hiểu và áp dụng các quy định về đối tượng được bảo hiểm, quyền lợi có thể được bảo hiểm, nghĩa vụ đóng phí, vấn đề cung cấp thông tin, các trường hợp không được trả tiền bảo hiểm, chấm dứ hợp đồng bảo hiểm, khôi phục hiệu lực của hợp đồng, … còn nhiều hạn chế. Điều này vừa là rào cản cho sự phát triển của thị trường BHNT, vừa không bảo đảm được quyền lợi chính đáng của người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.

Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, ngày 27/03/2019, Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp.HCM tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”. Hội thảo có sự tham gia từ nhiều bên gồm: nhà nghiên cứu, giảng viên trong và ngoài trường, các chuyên gia pháp lý đến từ các doanh nghiệp BHNT, nghiên cứu sinh tại trường, học viên cao học và sinh viên quan tâm. Nhiều nội dung pháp lý liên quan đến hợp đồng BHNT được các đại biểu tham dự phân tích trao đổi, tranh luận. Các đề xuất các kiến nghị hoàn thiện có giá trị khoa học cao, hữu ích cho hoạt động nghiên cứu chuyên sau và cung cấp thông tin cho hoạt động lập pháp theo chương trình lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới.

Các nội dung được thảo luận tại Hội thảo liên quan đến hợp đồng BHNT

  1. Quy định về đối tượng được bảo hiểm

Căn cứ theo khoản 1 điều 31 Luật KDBH năm 2000 (sửa đổi năm 2010) (sau đây gọi tắt là Luật KDBH) thì “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con người”. Theo đó, người mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con người. Trong khi đó, tổn thất tài chính xảy ra với con người còn thể hiện ở nhiều khía cạnh khác như sự thất nghiệp (bảo hiểm nghề nghiệp), bộ phận cơ thể con người làm nên giá trị nghề nghiệp của họ (ca sĩ cần bảo hiểm cho giọng hát, cầu thủ cần bảo hiểm cho đôi chân…). Theo quy định của pháp luật KDBH hiện hành thì những tổn thất tài chính này không thể được bảo hiểm ngay cả khi các bên thỏa thuận.

Do đó, Hội thảo kiến nghị: cần mở rộng đối tượng được bảo hiểm quy định tại khoản 1 điều 31 Luật KDBH. Theo đó, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con người mà còn bao gồm cả nghề nghiệp, các bộ phận cơ thể người và các yếu tố khác tác động đến khả năng chi trả các khoản chi phí tài chính trong tương lai của con người. Sự sửa đổi này nhằm bảo vệ tốt hơn người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng đối với những chi trả tài chính được xác định là không chắc chắn xảy ra trong tương lai.

  1. Quy định về quyền lợi có thể được bảo hiểm

Theo quy định tại khoản 2 điều 9 Luật KDBH thì quyền lợi được bảo hiểm là “Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”. Theo đó, xét dưới góc độ BHNT thì quyền lợi bảo hiểm trong BHNT là “quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”.

Tiếp cận ở góc độ luật thực định, quy định này vừa không xác định được nội hàm của quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, vừa hẹp về nội hàm của quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT:

Thứ nhất, về nội hàm của quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Hội thảo kết luận rằng, pháp luật KDBH không quy định cụ thể khái niệm nuôi dưỡng và cấp dưỡng nên nội hàm khái niệm nuôi dưỡng và cấp dưỡng trong BHNT còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Dẫn đến sự tùy tiện trong việc áp dụng. Một loạt các vấn đề pháp lý đặt ra như:

Một là, quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng được xác lập theo quy định của pháp luật (Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Nuôi con nuôi, bản án của tòa án) hay là hành vi nuôi dưỡng, cấp dưỡng trên thực tế (có hành vi cấp tiền để nuôi dưỡng giữa ông bà đối với cháu, cô dì chú bác với cháu và ngược lại).

Hai là, bên cạnh quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng phát sinh giữa cá nhân với cá nhân thì có bao gồm quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng phát sinh giữa tổ chức với cá nhân hay không?

Ba là, tần xuất, mức độ thiết lập mối quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng được xác định như thế nào?

Thứ hai, về nội hàm của quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT là quá hẹp. Nhiều ý kiến tại Hội thảo cho rằng, quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT không chỉ dừng lại ở quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng mà còn (i) quan hệ tài chính giữa con nợ với chủ nợ, (ii) quan hệ lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động, (iii) quan hệ học nghề giữa người học nghề với người dạy nghề. Theo đó, con nợ, người sử dụng lao động, người dạy nghề mà chết thì hai sẽ trả nợ, ai sẽ trả lương, ai sẽ dạy nghề? Và đó có phải là những nhu cầu chi trả tài chính cần phải bảo hiểm hay không?.

Hội thảo Kiến nghị:

Một là, cần mở rộng quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT theo quy định tại khoản 9 điều 3 Luật KDBH. Theo đó, ngoài quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng thì còn bao gồm các quyền, nghĩa vụ tài chính phát sinh như quyền đòi nợ giữa con nợ với chủ nợ, quyền đượct rả lương giữa những người sử dụng lao động với người lao động, quyền được học nghề giữa người học nghề với người dạy nghề… Điều này mở rộng các “rủi ro” có thể được bảo hiểm, gia tăng an toàn cho cá nhân, tổ chức trước sự đa dạng “rủi ro” phát sinh trong cuộc sống.

Hai là, cần xem xét lại quy định tại điểm c và d khoản 2 điều 31 Luật KDBH. Theo đó, Luật chỉ cần bỏ cụm từ “người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng” trong Điểm c Khoản 2 Điều 31 Luật KDBH vì Điểm d Khoản 2 Điều 31 đã bao quát quy định của cụm từ trên.

Ba là, pháp luật của các nước đều quy định quyền lợi có thể bảo hiểm riêng đối với BHNT và bảo hiểm tài sản. Vì vậy nên tách bạch quyền lợi có thể được bảo hiểm của từng loại hợp đồng bảo hiểm bởi ở mỗi loại hợp đồng bảo hiểm có quyền lợi được bảo hiểm là khác nhau. Kiến nghị sửa đổi quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật KDBH về quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm con người nói chung như sau: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm con người là quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng hoặc các quyền lợi kinh tế liên quan chặt chẽ đến tính mạng, sức khỏe và sự an toàn của người được bảo hiểm”. Đồng thời, bên cạnh các quy định xác định đối tượng người được bảo hiểm tại khoản 2 Điều 31 Luật KDBH, pháp luật cần bổ sung vào điểm d khoản 2 Điều 31 Luật KDBH như sau: “d) Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có mối quan hệ kinh tế hoặc người đó phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với bên mua bảo hiểm mà cái chết hoặc tình trạng bệnh tật của người đó sẽ ngăn chặn hoặc trì hoãn thực hiện nghĩa vụ tài sản dẫn đến những tổn thất tài chính đối với bên mua bảo hiểm.”

  1. Về người được bảo hiểm trong BHNT

Theo quy định tại khoản 2 điều 31 Luật KDBH thì “Bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho những người sau đây: a) Bản thân bên mua bảo hiểm; b) Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm; c) Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng; d) Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm”.

Với thiết kế cấu trúc của quy phạm pháp luật quy định tại khoản 2 điều 31 Luật KDBH thì có thể hiểu rằng người được bảo hiểm chỉ cần thỏa mãn riêng lẽ các trường hợp a, b, c, d thì bên mua bảo hiểm được phép mua bảo hiểm cho họ. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng lại không đơn giản như vậy. Bởi vì, với những cá nhân được liệt kê tại điểm a, b và một phần điểm c (anh, chị, em ruột) thì dường như pháp luật chỉ quan tâm đến mối quan hệ pháp lý đã được thiết lập mà không quan tâm đến thực tế nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Ngược lại, một phần điểm c (người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng) và điểm d thì người mua bảo hiểm phải chứng minh quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng trên thực tế. Trong khi đó, pháp luật không quy định căn cứ pháp lý để chứng minh quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng trên thực tế nên nguy cơ hợp đồng bảo hiểm bị tuyên bố vô hiệu là rất cao.

Hội thảo kiến nghị: Cần sửa đổi quy định về người được bảo hiểm tại khoản 2 điều 31 Luật KDBH. Theo đó, người được bảo hiểm nên phân chia làm hai nhóm (i) nhóm cá nhân không cần phải chứng minh quyền lợi có thể được bảo hiểm mà dựa vào quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng như chính bản thân người mua bảo hiểm, bố mẹ, vợ chồng, con, anh chị em ruột…(ii) nhóm cá nhân phải chứng minh quyền lợi có thể được bảo hiểm về mặt pháp lý. Đồng thời, Hội thảo đề xuất không công nhận quyền lợi có thể được bảo hiểm thực tế nhưng không chứng minh được về mặt pháp lý trừ khi DNBH  đã biết rõ điều đó nhưng vẫn đồng ý giao kết hợp đồng bảo hiểm. Xét về mặt kĩ thuật lập pháp thì “người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng” tại điểm c bị trùng với nội dung của điểm d khoản 2 Điều 31 Luật KDBH. Do đó, có ý kiến đề xuất bỏ đoạn “người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng” tại điểm c ở trên.

  1. Giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết

Mục đích của việc mua bảo hiểm cho trường hợp chết của người khác là nhằm thực hiện nghĩa vụ của người được bảo hiểm cho người được nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Do đó, người được bảo hiểm phải được biết người thụ hưởng là ai và số tiền bảo hiểm bao nhiêu tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Dưới góc độ đạo đức, quy định này nhằm đảm bảo người mua bảo hiểm không trục lợi từ sự kiện chết của người được bảo hiểm. Tuy nhiên, đoạn thứ hai của khoản 1 điều 38 Luật KDBH lại quy định “Mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm” mà lẽ ra phải là được sự đồng ý của người được bảo hiểm. Quy định này vừa thừa, vừa thiếu. (i) Thừa bởi vì thay đổi người thụ hưởng là thay đổi nội dung của hợp đồng bảo hiểm thì đương nhiên phải được người mua bảo hiểm đồng ý, (ii) thiếu bởi vì bên mua bảo hiểm có thể tùy ý thay đổi người thụ hưởng mà không cần ý kiến của người được bảo hiểm. Nội dung này bị xung đột trong chính quy định tại khoản 1 điều 38 Luật KDBH.

Có ý kiến nhận định, “liệu có sự xung đột giữa quy định tại điểm a và điểm b trong khoản 1 Điều 38 hay không? Tại sao khi chỉ định người thụ hưởng đầu tiên thì cần có sự đồng ý của người được bảo hiểm, nhưng trong quá trình tồn tại của hợp đồng BHNT mà có sự thay đổi người thụ hưởng thì chỉ cần có sự đồng ý của người mua bảo hiểm mà không đề cập đến ý chí của người được bảo hiểm về vấn đề thay đổi này? Việc gạt bỏ một bên ý chí của người được bảo hiểm trong trường hợp này có thoả đáng hay không?

Hội thảo kiến nghị: “Quy định về quyền thay đổi người thụ hưởng của bên mua bảo hiểm có sự khác biệt trong trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng cho trường hợp chết của một người mà người này không phải là bên mua bảo hiểm. Ở đây, người thụ hưởng phải được xác định trước tại thời điểm giao kết hợp đồng. Sau thời điểm này, người thụ hưởng vẫn có thể được thay đổi nhưng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm. Quy định như vậy là chưa hợp lý bởi người thụ hưởng có thể là yếu tố khiến người được bảo hiểm chấp nhận đem tuổi thọ, tính mạng của mình là đối tượng bảo hiểm. Do vậy việc quy định thay đổi người thụ hưởng trong trường hợp này nên có sự đồng ý bằng văn bản của NĐBH’’. Đề xuất sửa đổi đoạn thứ hai, khoản 1 điều 38 Luật KDBH thành “Mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng và số tiền bảo hiểm phải có sự đồng ý bằng văn bản của người được bảo hiểm”.

  1. Các trường hợp không trả tiền bảo hiểm

Nhằm loại bỏ hành vi trục lợi bảo hiểm, Luật KDBH quy định 3 trường hợp không được trả tiền bảo hiểm do có yếu tố trục lợi từ người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Hội thảo kiến nghị cần xem xét các vấn đề sau:

Thứ nhất, điểm a khoản 1 điều 39 Luật KDBH quy định “DNBH không phải trả tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn hai năm, kể từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực”. Quy định này nhằm loại bỏ tư duy “hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Hai năm được xác định là khoảng thời gian cần thiết cho người được bảo hiểm quên đi ý định tự tử để trục lợi bảo hiểm hình thành vào ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc hoặc vào ngày đóng phí gia hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Dưới góc độ tâm lý, trừ những người bị tâm thần phân liệt, tự tử là hành vi bộc phát mang tính ngắn hạn. Do đó, khoảng thời gian bị loại trừ bảo hiểm đến 2 năm là quá dài. Khoảng thời gian khá dài này làm cho hành vi tự tử và ý thức trục lợi bảo hiểm không còn liên quan nhau. Hội thảo cho rằng, quy định này gây bất lợi cho người thụ hưởng khi người được bảo hiểm không có ý thực trục lợi bảo hiểm.

Thứ hai, điểm b khoản 1 Luật KDBH quy định “DNBH không phải trả tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng”.  Trong trường hợp này, “DNBH  vẫn phải trả tiền bảo hiểm cho những người thụ hưởng khác theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Căn cứ vào quy định này, có 2 vấn đề phát sinh:

Một là, nếu người mua bảo hiểm chỉ định nhiều người thụ hưởng thì những người thụ hưởng còn lại vẫn được trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, pháp luật không quy định số tiền thụ hưởng của mỗi người vẫn giữ nguyên theo chỉ định của người mua bảo hiểm hay được hưởng thêm phần của người thụ hưởng bị tước quyền thụ hưởng.

Hai là, nếu người mua bảo hiểm chỉ định một người thụ hưởng hoặc nhiều người thụ hưởng nhưng tất cả những người thụ hưởng đều cố ý gây ra cái chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn cho người được bảo hiểm thì DNBH không phải trả tiền bảo hiểm mà chỉ “trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan”. Quy định này không hợp lý. Bởi vì, bản chất của BHNT là đầu tư tài chính. Người mua bảo hiểm với tư cách là nhà đầu tư hoàn toàn có quyền chỉ định người khác là người thụ hưởng nhằm tối đa hóa kết quả đầu tư. Bởi vì, giá trị của số tiền bảo hiểm và giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan có sự chênh lệch rất hớn. Hoặc trong trường hợp người mua bảo hiểm chỉ định người thụ hưởng theo cơ chế thiết lập thứ tự ưu tiên thì xử lý như thế nào? Có ý kiến cho rằng cần ghi nhận quyền chỉ định người thụ hưởng bổ sung nếu người thụ hưởng cố ý gây ra cái chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn cho người được bảo hiểm mà không còn người thụ hưởng khác được chỉ định trước đó trong hợp đồng bảo hiểm.

Thứ ba, điểm c khoản 1 điều 39 Luật KDBH quy định “DNBH  không phải trả tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình”. Cố ý phạm tội một cách đặc biệt nghiêm để được/bị tử hình (mong muốn phát sinh sự kiện bảo hiểm) nhằm mang lại lợi ích cho người thụ hưởng cũng là một hình thức trục lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng chưa xác định được ý đồ lập pháp của quy định này là nhằm (i) loại bỏ ý định thay vì trục lợi bằng cách tự tử thì trục lợi bằng hành vi phạm tội để được/bị tử hình hay (ii) trừng phạt người được bảo hiểm do có hành vi phạm tội nên không được thực hiện quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng với người thụ hưởng.

Nếu ở khía cạnh thứ nhất, Hội thảo kiến nghị cần ấn định một khoản thời gian từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc vào ngày đóng phí gia hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đến ngày người được bảo hiểm thực hiện hành vi phạm tội (khác với ngày bị thi hành án tử hình). Khoản thời gian này cần thiết bằng với khoản thời gian tại điểm a khoản 1 điều 39 Luật KDBH để người được bảo hiểm phạm tội không vì ý định trục lợi bảo hiểm.

Nếu ở khía cạnh thứ hai, Hội thảo hoàn toàn không ủng hộ cách tiếp cận này (cách tiếp cận theo quy định hiện hành). Theo đó, với quy định hiện hành, người được bảo hiểm phạm tội dẫn đến bị tử hình vào bất kỳ thời điểm nào thì người thụ hưởng đều mất quyền thụ hưởng. Báo cáo tham lận tại Hội thảo cho rằng, dù người được bảo hiểm có phạm tội như thế nào thì quyền được nuôi dưỡng, cấp dưỡng của người thụ hưởng phải được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo đó, sự kiện người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình đã làm mất đi người nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với người thụ hưởng. Do đó, quyền và lợi ích của người thụ hưởng vẫn phải được bảo đảm.

Từ đó, Hội thảo kiến nghị: Nhằm bảo vệ quyền lợi của người thụ hưởng, Hội thảo đề xuất một số sửa đổi các trường hợp đồng không được trả tiền bảo hiểm như sau:

Một là, tại điểm a khoản 1 điều 39 Luật KDBH: giảm thời gian theo quy định tại khoản này từ 2 năm xuống còn 1 năm. Khoản thời gian này là đủ để loại bỏ mối liên hệ giữa hành vi mua bảo hiểm và ý định tự tử để trục lợi bảo hiểm.

Hai là, tại điểm c khoản 1 điều 39 Luật KDBH: cần quy định thêm thời hạn tính từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mà khi xét xử, tội phạm đó bị áp dụng hình phát tử hình. Khoản thời hạn này bằng với khoản thời hạn quy định tại điểm a khoản 1 điều 39 Luật KDBH.

Ba là, khoản 2 diều 39 Luật KDBH cần quy định bổ sung thêm hai nội dung: (i) nếu tất cả những người thụ hưởng đều có lỗi cố ý gây ra cái chết hoặc thương tật vĩnh viễn cho người được bảo hiểm thì người mua bảo hiểm có quyền chỉ định người thụ hưởng tiếp theo; trường hợp người mua bảo hiểm không thể chỉ định người thụ hưởng thì người thụ hưởng là người thừa kế của người được bảo hiểm. (ii) Trong trường hợp một hoặc một số người thụ hưởng cố ý gây ra cái chết hay thương tật vĩnh viễn cho người được bảo hiểm, DNBH vẫn phải trả tiền bảo hiểm cho những người thụ hưởng khác theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của một hoặc một số người thụ hưởng bị tước quyền thụ hưởng sẽ được xử lý theo quy định tại trường hợp.

Bốn là, trong Luật KDBH cần bổ sung quy định về giới hạn của các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm mà DNBH đưa vào trong hợp đồng. Quy định này, một mặt giúp cho bên mua bảo hiểm có thể kiểm soát được tính hợp pháp các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm do DNBH đưa vào hợp đồng. Mặt khác quy định này cũng giúp cho bên bán bảo hiểm tránh được tình trạng lạm dụng các quy định “lỏng lẻo” của pháp luật về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm để giải thoát cho mình khỏi nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Các ý kiến thảo luận tại Hội thảo cũng đề xuất giới hạn của các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm nên được thiết kế dưới dạng khái quát như sau: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm chỉ được thoả thuận nhằm mục đích bảo đảm cho khả năng thanh toán của DNBH”

Năm là, kiến nghị sửa đổi và bổ sung Điều 16 Luật KDBH theo hướng sau:

“3. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau đây:

a) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;

b) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho DNBH về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.

4. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với bảo hiểm con người trong các trường hợp sau đây:

a) Người được bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;

b) Người được bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho DNBH về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm”.

  1. Về nghĩa vụ cung cấp thông tin và hậu quả pháp lý

Hội thảo nhận định, thông tin được một bên cung cấp chính là yếu tố quan trọng để bên còn lại quyết định giao kết hoặc không giao kết hợp đồng bảo hiểm. Mặc dù, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, “việc ký hợp đồng rất dễ dàng, đơn giản. Nhưng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì hầu như đến 90% là phát sinh tranh chấp và đa phần là các doanh nghiệp từ chối bồi thường bảo hiểm và các văn bản từ chối phần lớn là lý do người mua bảo hiểm đã vi phạm (điểm b khoản 2 Điều 18) của Luật Kinh doanh bảo hiểm’’.

Có 2 khía cạnh pháp lý liên quan đến nghĩ vụ cung cấp thông tin mà Hội thảo đã thảo luận:

Thứ nhất, cung cấp thông tin trong hợp đồng BHNT là quyền hay nghĩa vụ của người mua bảo hiểm. Khoản 1 Điều 19 Luật KDBH quy định “bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho DNBH”. Như vậy, pháp luật KDBH xác định cung cấp thông tin là nghĩa vụ bắt buộc của người mua bảo hiểm. Giả định trường hợp DNBH đặt một câu hỏi khó theo kiểu là “đã từng” hoặc “có thường uống chất có cồn không? Nếu có thì loại gì? Bao nhiêu ml/tuần”, người mua không chắc chắn về câu trả lời nên không trả lời hoặc trả lời là “không biết” thì có vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hay không? Hoặc ngược lại nếu người mua bảo hiểm yêu cầu DNBH cung cấp báo cáo tài chính 3 năm gần nhất của DNBH. Vì giữ bí mật tài chính, DNBH từ chối cung cấp thì có bị xem là vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hay không?

Thứ hai, quy định của pháp luật về xử lý hậu quả nếu một bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Theo đó, khoản 2 và khoản 3 điều 19 Luật KDBH áp dụng chế tài đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu một bên “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật cho bên còn lại”. Trong khi đó, điểm d khoản 1 điều 22 Luật KDBH quy định hành vi “lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm” của một bên được coi là căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, “mấu chốt của vấn đề chính là, pháp luật không nói rõ, lúc nào hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu và lúc nào thì đơn phương chấm dứt hợp đồng.

Từ những đánh giá trên cho thấy thực sự Điều 19 luật KDBH quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin cần phải bổ sung thêm nội dung sau: “Trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, DNBH có trách nhiệm thẩm định lại tính xác thực của các thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm cung cấp cho DNBH”.

Tại Hội thảo, ThS. Trần Thị Thủy – Thẩm phán Trung cấp, Tòa Dân sự, Tòa án Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh kiến nghị bổ sung thêm khoản 4 Điều 19 Luật KDBH như sau:

4. Thời hạn miễn trừ nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm và/hoặc người được bảo hiểm là 3 (ba) năm, kể từ ngày DNBH phát hành hợp đồng bảo hiểm.

DNBH có thể quy định thời hạn miễn trừ trên đây dưới 3 (ba) năm nhưng phải quy định rõ trong Hợp đồng bảo hiểm”.

Trên cơ sở quy định trên các DNBH có thể áp dụng quy định miễn truy xét là 2 (hai) năm như đã và đang áp dụng việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm trên thực tế trong thời gian qua.

Áp dụng các quy định nêu trên thì việc giải thích hợp đồng liên quan đến việc cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ khi phát sinh các vấn đề đã trình bày phân tích đề cập trên đây khi có xác định một trong các cơ sở pháp lý sau:

- Thông tin đó là thứ yếu không thuộc các điều khoản chủ yếu của hợp đồng; và/hoặc

- Không cung cấp thông tin đó nhưng DNBH vẫn nhận bảo hiểm đối với những trường hợp tương tự có khai báo về thông tin đó; và/hoặc

- Sự kiện bảo hiểm xảy ra không có liên quan đến thông tin không được cung cấp; và/hoặc

- Thông tin không cung cấp không phải là nguyên nhân trực tiếp để xem xét giải quyết quyền lợi bảo hiểm mà việc giải quyết quyền lợi bảo hiểm do phát sinh một hoặc nhiều nguyên nhân hoặc căn cứ pháp lý khác; và/hoặc

- Không có căn cứ chứng minh việc bên mua bảo hiểm và/hoặc người được bảo hiểm cố ý khai báo không trung thực để nhằm mục đích hưởng quyền lợi bảo hiểm. Trường hợp này phải có căn cứ chứng minh có mối quan hệ nhân quả của thông tin không khai báo với ý chí chủ quan của họ về mục đích hưởng quyền lợi bảo hiểm”

Đồng thời, cũng có ý kiến cho rằng, trong hoạt động của mình, doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin của khách hàng cho nhiều mục đích khác nhau. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể gửi thông tin về công ty mẹ hoặc chia sẽ với các công ty liên kết. Và các thông tin này có thể được xử lý theo khối (batch), theo dạng big data. Do đó, việc phải thông báo cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và lấy được sự đồng ý của từng người cho mỗi lần chuyển giao thông tin là không khả thi. Ngoài ra cũng không thể phân chia thông tin theo dạng một gói những người đã đồng ý và một gói những người không đồng ý để xử lý riêng

Cuối cùng, Hội thảo kết luận: Qua quy định của Luật KDBH tại điều 19, có thể thấy rằng hậu quả pháp lý khi hai chủ thể này vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là không tương xứng. Nếu BMBH vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thì DNBH được quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ còn đối với trường hợp DNBH vi phạm thì BMBH có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng và DNBH bồi thường thiệt hại phát sinh do cung cấp sai thông tin. Với trường hợp bên vi phạm là bên BMBH thì nghĩa vụ tài chính mà họ phải thực hiện rất rõ ràng, cụ thể là khoản phí mà họ đã và sẽ phải đóng đến thời điểm đình chỉ hợp đồng mà bên DNBH không cần chứng minh thiệt hại. Nhưng với trường hợp bên vi phạm là bên DNBH thì nghĩa vụ này lại khá mơ hồ, trừu tượng, nó phụ thuộc vào việc BMBH phải chứng minh được thiệt hại thực tế xảy ra. Điều đó đồng nghĩa với việc nếu BMBH không chứng minh được thiệt hại thì họ sẽ không được bồi thường. Liệu rằng quy định này có quá ưu ái cho DNBH trong khi BMBH là bên yếu thế về mặt thông tin nên được bảo vệ? DNBH là bên thiết kế nên Bộ qui tắc và Điều khoản bảo hiểm nên sẽ là bên nắm thông tin tốt hơn so với BMBH, vì vậy khả năng DNBH cung cấp sai thông tin thì đa số là lỗi cố ý. Vì vậy, cần có quy định những nguyên tắc, tiêu chí rõ ràng hơn đối với các nghĩa vụ tài chính mà DNBH phải gánh chịu trong trường hợp cung cấp sai thông tin chứ không thể quy định một cách mơ hồ như hiện tại. Về hậu quả pháp lý của việc một bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, có ý kiến đề xuất: “Nếu thời điểm phát hiện một bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trước khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì bên bị vi phạm có quyền tuyên bố đơn phương đình chỉ hợp đồng BHNT. Nếu thời điểm phát hiện một bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì tòa án chỉ có quyền tuyên bố vô hiệu nếu thông tin bị cho là lừa dối là nguyên nhân xảy ra sự kiện bảo hiểm; trường hợp thông tin bị cho là lừa dối  không phải là nguyên nhân xảy ra sự kiện bảo hiểm thì DNBH vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm”.

  1. Về khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT

Thời hạn bảo hiểm trong BHNT thường rất dài. Do đó, khả năng dự báo về năng lực đóng phí của người mua rất thấp. Việc vi phạm nghĩa vụ đóng phí dẫn đến hợp đồng bị chấm dứt là hoàn toàn có thể xảy ra. Nhằm bảo vệ quyền lợi các bên, khoản 4 điều 34 Luật KDBH quy định cho phép các bên có quyền thỏa thuận khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, quy định này còn tồn tại nhiều hạn chế:

Thứ nhất, về hình thức khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT. Khoản 4 Điều 34 Luật KDBH quy định “Các bên có thể thoả thuận khôi phục hiệu lực hợp đồng bảo hiểm đã bị đơn phương đình chỉ thực hiện theo quy định”. Như vậy, pháp luật không quy định chi tiết trình tự, thủ tục để khôi phục hiệu lực của hợp.

Thứ hai, về điều kiện khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Căn cứ theo khoản 4 điều 35Luật KDBH thì việc khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT chỉ được thực hiện khi thỏa mãn 3 điều kiện:

Một là, thời hạn hợp đồng BHNT đã bị DNBH đơn phương đình chỉ không được quá 2 năm tính đến ngày người mua bảo hiểm và DNBH thỏa thuận khôi phục hiệu lực của hợp đồng.

Hai là, người mua bảo hiểm đã đóng đủ số phí bảo hiểm còn thiếu.

Ba là, việc khôi phục hiệu lực hợp đồng BHNT chỉ được thực hiện trong trường hợp hợp đồng BHNT bị đơn phương đình chỉ khi người mua bảo hiểm đã đóng bảo hiểm dưới 2 năm Ngược lại, nếu người mua bảo hiểm đã đóng bảo hiểm từ 2 năm trở lên thì các bên không được thỏa thuận khôi phục hiệu lực của hợp đồng. (khoản 4 điều 35 Luật KDBH chỉ áp dụng cho khoản 2 mà không áp dụng cho khoản điều 35 Luật KDBH.

Bốn là, việc khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm chỉ áp dụng trong trường hợp hợp đồng BHNT bị DNBH đơn phương đình chỉ do người mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ đóng phí mà không bao gồm các trường hợp khác. Bởi vì, việc hợp đồng bị đơn phương đình chỉ bởi một bên trong quan hệ hợp đồng có rất nhiều lý do khác nhau như người mua chậm khắc phục các biện pháp hạn chế rủi ro, vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin nên bị đình chỉ nhưng sau đó đã kịp thời cung cấp thông tin đầy đủ… Việc giới hạn các trường hợp khôi phục hiệu lực của hợp đồng BHNT là không cần thiết và vi phạm quyền tự quyết của các bên trong quan hệ hợp đồng.

Từ những vấn đề trên, Hội thảo kiến nghị: cần sửa đổi khoản 4 điều 34 Luật KDBH theo hướng ghi nhận việc khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm là “tự do thỏa thuận” mà không đi kèm các điều kiện như đã phân tích. Đồng thời, cần xác định nguyên tắc DNBH im lặng thu phí của người mua bảo hiểm là đồng ý khôi phục hiệu lực của hợp đồng, trừ phi người mua bảo hiểm khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm là có yếu tố trục lợi bảo hiểm.

  1. Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm

Dưới góc độ luật thực định, điểm đ khoản 1 điều 18 Luật KDBH đã ghi nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là quyền của bên mua bảo hiểm. Đồng thời, điều 26 Luật KDBH cũng quy định về điều kiện chuyển nhượng và hiệu lực pháp lý của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, những quy định này áp dụng chung cho tất cả các hợp đồng bảo hiểm, chưa có quy định về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm riêng cho hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong khi đó, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với những đặc thù riêng biệt mà các sản phẩm bảo hiểm khác không có.

ThS. Nguyễn Thị Thúy, Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh nhận định: “Với quy định này, các nhà làm luật đã thể hiện rõ ý chí bảo vệ người mua bảo hiểm trước khả năng bị mất một phần trong tổng số phí bảo hiểm đã đóng trước đó vì vi phạm nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, trong khi đó, mục đích tham gia BHNT là nhằm tích luỹ, tiết kiệm hay đầu tư một khoản tài chính cho tương lai. Tuy nhiên, pháp luật lại đồng thời đặt ra một điều kiện có phần đi ngược lại với ý chí tốt đẹp bên trên của mình, khi quy định rằng sự chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ được phép thực hiện khi có sự chấp thuận của DNBH. Giả sử rằng, DNBH không đồng ý cho bên mua bảo hiểm chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho một người khác dù người này đáp ứng đủ những điều kiện của tư cách người mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật thì người mua bảo hiểm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo hiểm nếu muốn nhận lại toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng, ngược lại, người mua bảo hiểm chỉ có thể nhận lại phần giá trị hoàn lại (thường nhỏ hơn tổng số phí bảo hiểm đã đóng) của hợp đồng BHNT mà thôi’’.

Đồng thời, Hội thảo kết luận, “có thể thấy rằng quy định về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tại Điều 26 còn rất chung chung và mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền của bên mua bảo hiểm trong việc chuyển nhượng HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM cho người thứ ba và việc chuyển nhượng này phải được sự chấp thuận bằng văn bản của DNBH, mà chưa đề cập đến các vấn đề như điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan hệ chuyển nhượng, hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm”.

  1. Điều khoản bảo hiểm tạm thời

Hôi thảo đưa ra quan điểm: Việc công ty bảo hiểm trao cho khách hàng quyền được bảo hiểm trong thời hạn này có ý nghĩa rất quan trọng. Thứ nhất, đối với khách hàng, đây là điều khoản giúp họ được bảo hiểm khi hồ sơ yêu cầu bảo hiểm vẫn đang trong giai đoạn thẩm định cho dù kết quả thẩm định có thể là họ bị công ty bảo hiểm từ chối bảo hiểm vì không đủ điều kiện bảo hiểm. Thứ hai, đối với công ty bảo hiểm, việc trao thêm cho khách hàng quyền được bảo hiểm tạm thời trong giai đoạn này sẽ tạo ra các lợi thế cạnh tranh cho họ đối với các công ty BHNT khác, đồng thời điều khoản này cũng tạo được sự an tâm và thiện cảm của khách hàng. Vì vậy, Hội thảo kiếm nghị cần phải luật hóa quy định của pháp luật về điều khoản bảo hiểm tạm thời.

  1. Quản lý nhà nước về hợp đồng BHNT

Thứ nhất, về xây dựng và đăng ký hợp đồng BHNT mẫu

Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, theo Luật Bảo Vệ Người Tiêu Dùng, Bộ Công Thương đã đề nghị Thủ Tướng đưa BHNT và một số dịch vụ ngân hàng cá nhân (ngoài một số lĩnh vực khác) vào danh mục phải đăng ký hợp đồng mẫu với Bộ Công Thương thông qua Cục Quản Lý Cạnh Tranh. Quyết định 35/2015/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 20 tháng 08 năm 2015 đã ghi nhận yêu cầu này.

Như vậy hợp đồng mẫu của các sản phẩm BHNT chịu sự quản lý đồng thời của hai cơ quan là Bộ Tài Chính và Bộ Công Thương. Ngay khi Quyết Định 35/2015/QĐ-TTg ra đời, rất nhiều công ty bảo hiểm, các chuyên gia đã lên tiếng về sự bất hợp lý này. Nhưng Bộ Công Thương vẫn bảo lưu quan điểm của mình. “Việc chịu sự quản lý đồng thời của cả hai cơ quan đã dẫn đến một số khó khăn nhất định cho các DNBH khi đăng ký sản phẩm và đăng ký hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung. Các doanh nghiệp thường mất rất nhiều thời gian làm việc với hai cơ quan để thông qua sản phẩm và hợp đồng mẫu của mình’’.

Thực chất, việc quy định đăng ký hợp đồng mẫu thông qua việc phải được sự phê chuẩn/chấp nhận của Bộ Tài chính hay Bộ Công thương đi chăng nữa cũng là hình thức biến tướng của giấy phép kinh doanh - đỉnh cao của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh, là biểu hiện của sự hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là biểu hiện của cơ chế xin – cho trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đi ngược lại với tinh thần tạo lập một môi trường kinh doanh thông thoáng cho doanh nghiệp theo các quy định hiện hành tại Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư năm 2014, đi ngược nỗ lực của Chính phủ trong việc loại bỏ, cắt giảm bớt điều kiện kinh doanh, giấy phép kinh doanh đang gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù Nghị định số 73/2016/NĐ-CP có quy định quan trọng về cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi yêu cầu Bộ Tài chính phải có trao đổi, thống nhất với Bộ Công thương trước khi phê duyệt sản phẩm bảo hiểm, phê chuẩn hợp đồng mẫu nhưng thực tế thủ tục đăng ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vẫn là thủ tục hành chính bắt buộc các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải đáp ứng, là điều kiện kinh doanh khắt khe mà nhà nước đặt ra cho doanh nghiệp phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh, trong khi tính khoa học và sự phù hợp của quy định này khi áp dụng trên thực tế tại Việt Nam đến nay vẫn còn bỏ ngỏ, điều đó vô hình trung gây khó cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong hoạt động kinh doanh.

TS. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Trường Đại học kinh tế Tp.HCM nhận định: quy định về thủ tục đăng ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một thủ tục hành chính thừa, không cần thiết. Lịch sử phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong hơn 20 năm qua đã chứng minh rằng trước khi có Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thông qua việc giao kết và thực thi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với khách hàng cá nhân vẫn được tiến hành một cách bình thường. Từ các phân tích trên, TS. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Trường Đại học kinh tế Tp.HCM kiến nghị nhà nước Việt Nam bãi bỏ quy định về đăng ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ theo mẫu tại Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, phù hợp với xu hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay tại Việt Nam.

Thứ hai, quản lý nhà nước về vấn đề trục lợi trong BHNT

Ông Phạm Hải Huy, Chuyên viên điều tra Công ty TNHH Bảo hiểm Manulife Việt Nam, Cộng tác viên Công ty Luật hợp danh Anh em Luật sư nhận định: Việc các DNBH chứng minh NĐBH có hành vi cố ý tự gây thiệt hại về sức khỏe của mình để được hưởng quyền lợi bảo hiểm là rất khó khăn, nhất là khi không có sự hợp tác từ phía NĐBH. Các DNBH không có các công cụ hỗ trợ trong công tác giám định hiện trường, công tác thu thập chứng cứ còn khó khăn do không có sự hỗ trợ từ phía người dân, các cơ quan nhà nước. Hiện nay, không có quy định về trách nhiệm trao đổi cơ sở dữ liệu khách hàng nên vì động lực cạnh tranh, các DNBH thường không chia sẻ thông tin với nhau. Chính vì vậy, nhiều trường hợp trục lợi bảo hiểm có tính chất hàng loạt đã xảy ra mà không được cảnh báo hoặc phối hợp giải quyết, từ đó gây thiệt hại cho nhiều DNBH và giảm niềm tin của công chúng đối với ngành bảo hiểm. Từ đó ông Huy kiến nghị:

Tóm lại, mua BHNT là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế, khi mà con người có nhu cầu bảo đảm các khoản chi trả tài chính trong tương lai. Trong khi đó, tỷ lệ mua BHNT tại Việt Nam còn rất thấp so với các quốc gia trên thế giới (90% dân số Mỹ mua BHNT, người Việt chỉ là 8%). Bên cạnh những yếu tố như thu nhập còn thấp, ít có tâm lý phòng ngừa rủi ro… thì rào cản về pháp lý một trong những yếu tố làm mất niềm tin của người mua bảo hiểm vào BHNT. Pháp luật BHNT Việt Nam phải được ban hành theo hướng bảo vệ quyền lợi người mua bảo hiểm, thay người mua bảo hiểm ghi nhận các quy định mang tính phòng ngừa, bảo vệ tối đa lợi ích của người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng khi người mua bảo hiểm không đủ năng lực thỏa thuận, đàm phán hợp đồng bảo hiểm. Trong phạm vi tham luận tại Hội thảo, các đại biểu tham dự đã chỉ ra những bất cập, hạn chế, đồng thời đề xuất một số sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường BHNT Việt Nam.